
03/09/2025

1. Nội dung kiến nghị liên quan đến khoản 1 Điều 10 Luật số
13/2008/QH12 quy định về phương pháp khấu trừ thuế GTGT:
Nội dung kiến nghị:
Theo khoản 1 Điều 10 Luật số 13/2008/QH12 quy định phương pháp
khấu trừ thuế GTGT thì số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế
đều căn cứ trên số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra và mua vào ghi
trên hoá đơn GTGT trong khi Luật Quản lý thuế quy định thời hạn khai, nộp
thuế đối với hoạt động khai thác, bán khí thiên nhiên xác định theo tháng “chậm
nhất là ngày thứ 20 của tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế đối với
trường hợp khai và nộp theo tháng” - điểm a khoản 1 Điều 44 và khoản 1 Điều
55 gây khó khăn trong quá trình thực hiện do tháng phát sinh nghĩa vụ thuế là
tháng xuất bán khí tuy nhiên, tại thời điểm xuất bán khí chưa có hóa đơn đầu
vào đầu ra của khí bán trong tháng nên không thể xác định được chính xác số
thuế GTGT phải nộp theo Luật Thuế GTGT.
Kiến nghị: Sửa đổi các quy định để đảm bảo tính thống nhất và doanh
nghiệp có thể thực hiện được.
Bộ Tài chính xin trả lời như sau:
- Tại điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Thuế GTGT số 48/2024/QH15 ngày
26/11/2025 quy định về thời điểm xác định thuế GTGT như sau:
“a) Đối với hàng hóa là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền
sử dụng hàng hóa cho người mua hoặc thời điểm lập hóa đơn, không phân biệt
đã thu được tiền hay chưa thu được tiền;”.
- Tại điểm b khoản 7 Điều 16 Nghị định số 181/2025/NĐ-CP ngày
01/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Thuế
GTGT quy định về thời điểm xác định thuế GTGT như sau:
“Đối với hoạt động bán khí thiên nhiên, khí đồng hành, khí than được
chuyển bằng đường ống dẫn khí đến người mua, thời điểm xác định thuế GTGT
là thời điểm bên mua, bên bán xác định khối lượng khí giao của tháng nhưng
2
chậm nhất là ngày cuối cùng của thời hạn kê khai, nộp thuế đối với tháng phát
sinh nghĩa vụ thuế theo quy định pháp luật về quản lý thuế”.
- Tại điểm e khoản 4 Điều 9 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày
19/10/2020 của Chính phủ (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số
70/2025/NĐ-CP ngày 20/3/2025 của Chính phủ) quy định về thời điểm lập hóa
đơn như sau:
“Đối với hoạt động bán khí thiên nhiên, khí đồng hành, khí than được
chuyển bằng đường ống dẫn khí đến người mua, thời điểm lập hóa đơn là thời
điểm bên mua, bên bán xác định khối lượng khí giao của tháng nhưng chậm
nhất là ngày cuối cùng của thời hạn kê khai, nộp thuế đối với tháng phát sinh
nghĩa vụ thuế theo quy định pháp luật về thuế.”
- Tại điểm a khoản 1 Điều 44 và khoản 1 Điều 55 Luật Quản lý thuế số
38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 quy định như sau:
“Điều 44. Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế
1. Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế đối với loại thuế khai theo tháng, theo
quý được quy định như sau:
a) Chậm nhất là ngày thứ 20 của tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ
thuế đối với trường hợp khai và nộp theo tháng;
…
Điều 55. Thời hạn nộp thuế
1. Trường hợp người nộp thuế tính thuế, thời hạn nộp thuế chậm nhất là
ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế. Trường hợp khai bổ sung hồ
sơ khai thuế, thời hạn nộp thuế là thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế
có sai, sót.
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp thì tạm nộp theo quý, thời hạn nộp
thuế chậm nhất là ngày 30 của tháng đầu quý sau.
Đối với dầu thô, thời hạn nộp thuế tài nguyên, thuế thu nhập doanh
nghiệp theo lần xuất bán dầu thô là 35 ngày kể từ ngày xuất bán đối với dầu thô
bán nội địa hoặc kể từ ngày thông quan hàng hóa theo quy định của pháp luật
về hải quan đối với dầu thô xuất khẩu.
Đối với khí thiên nhiên, thời hạn nộp thuế tài nguyên, thuế thu nhập
doanh nghiệp theo tháng.”
Căn cứ quy định nêu trên, thời điểm xác định thuế GTGT có thể là thời
điểm lập hóa đơn và thời điểm xác định thuế GTGT đối với hoạt động bán khí
thiên nhiên đã thống nhất với thời điểm lập hóa đơn và nộp hồ sơ khai thuế, nộp
thuế theo tháng theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Ngoài ra, ngày 01/8/2025, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết số 92/2025/UBTVQH15 điều chỉnh Chương trình lập pháp năm 2025 theo
đó, Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đã được bổ sung vào Chương trình lập pháp năm
3
2025 và sẽ trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 10 (tháng
10/2025).
2. Nội dung liên quan đến Nghị định số 146/2017/NĐ-CP ngày
15/12/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
100/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016:
Nội dung kiến nghị:
Từ giữa năm 2018 thị trường sản phẩm lọc hóa dầu nội địa có nhiều thay
đổi khi nhà máy lọc dầu (NMLD) Nghi Sơn (BSR) đi vào sản xuất. Nguồn cung
xăng dầu trong nước tăng lên rất nhiều giúp cho cán cân cung cầu xăng dầu nội
địa dần được cân bằng. Bên cạnh đó, với các yêu cầu về tiêu chuẩn khí thải theo
Quyết định số 49/2011/QĐ-TTg, sản lượng xăng dầu cung ứng trên thị trường
có thời điểm sẽ vượt nhu cầu nội địa hoặc có những thời điểm sản phẩm xăng
dầu của BSR không thể tiêu thụ được tại thị trường trong nước. Để đảm bảo cho
Nhà máy được vận hành an toàn và liên tục, ngoài phương án tiêu thụ tối đa sản
phẩm tại thị trường nội địa, BSR và khách hàng của BSR buộc phải có kế hoạch
xuất khẩu sản phẩm của NMLD Dung Quất sang các nước trong khu vực khi
sản phẩm của nhà máy không thể tiêu thụ được tại thị trường nội địa. Bên cạnh
đó, hàng năm BSR xuất khẩu khoảng hơn 140-150 nghìn tấn FO. Tuy nhiên, sản
phẩm lọc dầu của BSR khi xuất khẩu vẫn không thuộc đối tượng chịu thuế
GTGT, do đó, phần thuế GTGT tăng không được khấu trừ này đang được tính
vào chi phí sản xuất kinh doanh. Điều này không những làm tăng chi phí sản
xuất kinh doanh mà còn làm giảm đi lợi thế cạnh tranh cũng như bất lợi cho
BSR trong quá trình kinh doanh sản phẩm, đặc biệt giai đoạn thị trường gặp
khó khăn.
Kiến nghị: Xem xét loại bỏ các sản phẩm được chế biến từ tài nguyên dầu
thô ra khỏi danh sách các sản phẩm không chịu thuế GTGT khi xuất khẩu (bao
gồm cả xuất khẩu trực tiếp từ BSR hoặc thông qua các đầu mối).
Bộ Tài chính xin trả lời như sau:
Ngày 01/7/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 181/2025/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế GTGT, theo đó, không quy
định các sản phẩm được chế biến từ tài nguyên dầu thô tại Danh mục sản phẩm
xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến thành sản phẩm
khác và sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác đã chế biến
thành sản phẩm khác tại Phụ lục I, Phụ lục II kèm theo Nghị định số
181/2025/NĐ-CP.
3. Nội dung kiến nghị liên quan đến Điều 26 Nghị định số
181/2025/NĐ-CP:
Nội dung kiến nghị:
Quy định này áp dụng đối với việc chi mua hàng hóa, dịch vụ cho tàu
biển của đơn vị trong nước phát sinh tại nước ngoài còn hạn chế về tính khả thi.
Theo thông lệ quốc tế, tàu hoạt động tại nước ngoài vẫn phải phát sinh các giao
4
dịch đột xuất phải kịp thời xử lý và khi tàu hoạt động tại khu vực có cơ sở hạng
tầng thấp như Châu Phi, một số nước Nam Mỹ,… nên cần sử dụng tiền mặt trên
tàu để chi trả. Tuy nhiên, do điều kiện thanh toán trên tàu không thể sử dụng
các phương tiện thanh toán khác nên vẫn phải dùng nguồn tiền ngoại tệ dự trữ
trên tàu để thanh toán. Hơn nữa, các đội tàu các nước hiện đại như Châu Âu,
Bắc Mỹ, Úc,… vẫn sử dụng tiền mặt trên tàu (Cash To Master - CTM) để phục
vụ hoạt động liên tục, công việc đột xuất của tàu.
Bộ Tài chính xin trả lời như sau:
Tại điểm b khoản 2 Điều 14 Luật Thuế GTGT số 48/2024/QH15 quy định
về điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào như sau:
“2. Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào được quy định như
sau:
…
b) Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ
mua vào, trừ một số trường hợp đặc thù theo quy định của Chính phủ;”
Tại Điều 26 Nghị định số 181/2025/NĐ-CP quy định về chứng từ thanh
toán không dùng tiền mặt như sau:
“Điều 26. Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt
Cơ sở kinh doanh phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối
với hàng hóa, dịch vụ mua vào (bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu) từ 05 triệu
đồng trở lên đã bao gồm thuế giá trị gia tăng”.
Căn cứ quy định nêu trên, điều kiện “có chứng từ thanh toán không dùng
tiền mặt” là điều kiện để khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Đối với việc chi mua
hàng hóa, dịch vụ cho tàu biển của doanh nghiệp trong nước phát sinh tại nước
ngoài thì hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ ở nước ngoài sẽ không phát sinh số
thuế GTGT được khấu trừ tại Việt Nam. Vì vậy, sẽ không phát sinh vướng mắc.
Bộ Tài chính trả lời để Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia
Việt Nam được biết./.
Gửi phản hồi:
lĩnh vực hỏi đáp cstc
-
Tài chính tổng hợp
Kế hoạch - Tài chính
Thuế
Hải quan
Kế toán và kiểm toán
Tài chính kinh tế ngành
Ngân sách nhà nước
Quản lý công sản
Kho bạc
Quản lý nợ và Kinh tế đối ngoại
Quản lý giá
Quản lý, giám sát bảo hiểm
Chế độ kế toán
Chứng khoán
Doanh nghiệp nhà nước
Chính sách thuế
Pháp chế
Tổ chức, cán bộ
Dự trữ
Đấu thầu
Phát triển doanh nghiệp nhà nước
Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể
Thống kê
Bảo hiểm xã hội
Đầu tư nước ngoài
Quản lý quy hoạch
Kinh tế địa phương và lãnh thổ
Giám sát và Thẩm định đầu tư
Phát triển hạ tầng