Hỏi:
Trả lời kiến nghị của Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng
sản Việt Nam
03/09/2025
Trả lời:
Nội dung kiến nghị liên quan đến điểm g khoản 2 Điều 26 Nghị định
181/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Thuế GTGT:
“g) Đối với hàng hóa, dịch vụ mua trả chậm, trả góp có giá trị hàng hóa,
dịch vụ mua từ 05 triệu đồng trở lên, cơ sở kinh doanh căn cứ vào hợp đồng
mua hàng hóa, dịch vụ bằng văn bản, hóa đơn GTGT và chứng từ thanh toán
không dùng tiền mặt của hàng hóa, dịch vụ mua trả chậm, trả góp để khấu trừ
thuế GTGT đầu vào. Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán không dùng tiền
mặt do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng, phụ lục hợp đồng thì cơ
sở kinh doanh vẫn được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Trường hợp đến thời
điểm thanh toán theo hợp đồng, phụ lục hợp đồng, cơ sở kinh doanh không có
chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thì cơ sở kinh doanh phải kê khai, điều
chỉnh giảm số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ đối với phần giá trị hàng hóa,
dịch vụ không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt vào kỳ tính thuế phát
sinh nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng, phụ lục hợp đồng.”
Quy định chưa rõ ràng thời điểm: vì thời điểm Nghị định có hiệu lực từ
01/7/2025 nên hiểu các khoản trả chậm của công nợ phát sinh từ 01/7/2025 đến
hạn trả mà không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thì doanh nghiệp
phải kê khai điều chỉnh giảm thuế GTGT đầu vào hay hiểu theo ý các khoản nợ
phát sinh trước 01/7/2025 mà sau 01/7/2025 đến hạn thanh toán (theo hợp
đồng, phụ lục hợp đồng) không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thì
doanh nghiệp phải kê khai điều chỉnh giảm thuế GTGT đầu vào.
Bộ Tài chính xin trả lời như sau:
Căn cứ quy định tại điểm g khoản 2 Điều 26 Nghị định số 181/2025/NĐCP thì trường hợp đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng, phụ lục hợp đồng,
cơ sở kinh doanh không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thì cơ sở
kinh doanh phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
đối với phần giá trị hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán không dùng
tiền mặt vào kỳ tính thuế phát sinh nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng, phụ lục
hợp đồng. Nghị định số 181/2025/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày
2
01/7/2025, do vậy đề nghị thực hiện theo quy định trên từ ngày 01/7/2025.
Trường hợp doanh nghiệp có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thì
doanh nghiệp sẽ được kê khai khấu trừ đối với phần giá trị hàng hóa, dịch vụ có
chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt.
Bộ Tài chính trả lời để Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt
Nam được biết./.
Văn bản quy phạm, điều luật liên quan:
Câu hỏi khác
Hỏi:
V/v: Hướng dẫn áp dụng thuế GTGT và thuế nhập khẩu đối với hệ thống chăn nuôi gia cầm theo quy định mới từ ngày 01/07/2025.
Công ty chúng tôi chuyên kinh doanh, nhập khẩu và cung cấp các hệ thống, máy móc, thiết bị phục vụ ngành chăn nuôi gia cầm tại Việt Nam.
Chúng tôi được biết, kể từ ngày 01/07/2025, Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 và các văn bản hướng dẫn như Nghị định số 181/2025/NĐ-CP đã chính thức có hiệu lực. Theo đó, mặt hàng "máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp" được chuyển từ đối tượng không chịu thuế GTGT sang áp dụng mức thuế suất 5%.
Để đảm bảo tuân thủ đúng các quy định mới của pháp luật, Công ty chúng tôi kính đề nghị Quý Bộ hướng dẫn và làm rõ một số vấn đề sau đây liên quan cụ thể đến hệ thống chăn nuôi gia cầm:
1. Về việc xác định danh mục máy móc, thiết bị được áp dụng thuế suất GTGT 5%:
Luật có quy định mức thuế suất 5% áp dụng cho "máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp theo quy định của Chính phủ". Vậy, chúng tôi xin hỏi:
Danh mục chi tiết các loại máy móc, thiết bị chuyên dùng cho chăn nuôi gia cầm được hưởng thuế suất GTGT 5% được quy định cụ thể tại văn bản nào?
Các thiết bị trong hệ thống chăn nuôi gia cầm mà chúng tôi đang nhập khẩu và cung cấp dưới đây có thuộc danh mục được áp dụng thuế suất GTGT 5% không?
Hệ thống cho ăn tự động (bao gồm silo, dây tải, máng ăn).
Hệ thống uống nước tự động (bao gồm bộ điều áp, đường ống, núm uống).
Hệ thống làm mát, thông gió (quạt thông gió, tấm làm mát cooling pad).
Hệ thống sưởi ấm (đèn úm, máy sưởi gas).
Hệ thống thu trứng tự động.
Lồng, sàn nhựa/nan cho gia cầm.
Song song với sự thay đổi về thuế GTGT, chúng tôi xin Quý Bộ hướng dẫn về chính sách thuế nhập khẩu ưu đãi (nếu có) đối với các mặt hàng máy móc, thiết bị phục vụ chăn nuôi gia cầm nêu trên kể từ ngày 01/07/2025.
Chúng tôi rất mong nhận được sự phản hồi và hướng dẫn chi tiết từ Quý Bộ để doanh nghiệp có thể thực hiện đúng nghĩa vụ thuế với nhà nước, đồng thời ổn định hoạt động kinh doanh và hỗ trợ tốt nhất cho người nông dân.
Xin trân trọng cảm ơn.
Hỏi:
Kính gửi: Bộ Tài chính
Chúng tôi, Công ty Cổ phần Xây Dựng và Thương mại Sao Phương Đông
MST: 0103472935
Địa chỉ trụ sở chính: Số 226/8 Lê Duẩn, Phường Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Tp Hà Nội, Việt Nam.
Liên quan đến giảm thuế GTGT, căn cứ Nghị định 174/2025/NĐ-CP ngày 30/06/2025 của Chính phủ quy định giảm thuế giá trị gia tăng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10%, trừ nhóm hàng hóa, dịch vụ được liệt kê ở Phụ lục I, II, III được ban hành kèm theo Nghị định.
Hiện nay, Công ty chúng tôi đang nhập khẩu và kinh doanh mặt hàng Cáp thép được nhập khẩu từ nhà sản xuât Kiswire Hàn Quốc với mô tả hàng hóa như sau : Dây cáp bện tao, bằng thép, lõi thép quy cách 6x36ws+IWRC. không phải cáp thép dự ứng lực. Mã HS 73121099. Vậy đối với hàng hóa cáp thép Công ty chúng tôi đang nhập khẩu và kinh doanh thuộc đối tượng áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 10% hay được áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 8% theo Nghị định số 174/2025/NĐ-CP ngày 30/06/2025.
Hỏi:
(eD) - Bộ Tài chính nhận được phản ánh của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy
sản Việt Nam (thông qua thông tin từ Bộ Tư pháp) về chính sách thuế.1. Nội dung kiến nghị:
Doanh nghiệp phải nộp trước thuế TTĐB cho rượu và các loại phụ gia có
chứa rượu (để chế biến thực phẩm) khi nhập khẩu hoặc mua trong nước, sau
đó
mới được xem xét hoàn thuế nếu chứng minh được là đã sử dụng để sản xuất
hàng xuất khẩu. Trong khi đó, rượu chỉ dùng làm nguyên liệu chế biến
thực phẩm
không gây tác hại đến sức khỏe (do phải trải qua một quá trình chế biến
như gia
nhiệt, phối trộn,… và chỉ sử dụng một lượng nhỏ trong thực phẩm), do đó
không
thuộc đối tượng điều tiết chính của sắc thuế TTĐB (được thiết kế để điều
tiết hành
vi tiêu dùng có hại cho sức khỏe hoặc xa xỉ như rượu bia để uống, thuốc
lá, xe
sang…).
Quy định này đã dẫn đến các tác động bất lợi cho sản xuất kinh doanh:
- Ảnh hưởng đến dòng vốn của doanh nghiệp: Quá trình hoàn thuế kéo dài,
tồn đọng vốn lớn, ảnh hưởng đến dòng tiền và chi phí sản xuất của doanh
nghiệp.
- Gây áp lực tài chính, gia tăng chi phí của doanh nghiệp: Việc nộp
trước
thuế TTĐB làm tăng chi phí trước mắt, trong khi doanh nghiệp chưa thể
thu hồi
vốn từ đơn hàng xuất khẩu. Thủ tục hoàn thuế phức tạp và kéo dài khiến
cả doanh
nghiệp lẫn cơ quan quản lý Nhà nước tốn thêm thời gian, nhân lực để thực
hiện.
- Ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh: Chi phí tăng làm giảm sức cạnh
tranh của hàng thủy sản Việt Nam so với các nước đối thủ không áp dụng
chính
sách thuế tương tự.
- Không hiệu quả trong quản lý Nhà nước: Việc đánh thuế trước rồi hoàn
sau đối với rượu trong chế biến thực phẩm xuất khẩu vừa không hiệu quả
về mặt
quản lý Nhà nước, vừa gây bất lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu, đi ngược
chủ
trương thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện môi trường kinh doanh của Chính
phủ.
Đề nghị Bộ Tài chính xem xét, sớm đưa vào văn bản pháp lý để:
- Miễn thuế TTĐB tại khâu đầu vào đối với các loại rượu/phụ gia có gốc
rượu dùng làm nguyên liệu để sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu, tương
tự như
cơ chế miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu phục vụ xuất khẩu.
- Hoặc đơn giản hóa, rút ngắn quy trình hoàn thuế, áp dụng cơ chế hậu
kiểm thay vì yêu cầu nộp trước – hoàn sau, nhằm giảm áp lực tài chính và
thủ tục
hành chính cho doanh nghiệp.
Bộ Tài chính xin trả lời như sau:2. Nội dung kiến nghị:
Văn bản 2550/BTC-TCT ngày 12/3/2021 của Bộ Tài Chính đã xác nhận
chế biến thủy sản là “hoạt động chế biến”: “Căn cứ vào các quy định nêu
trên thì
các hoạt động: (i) chế biến từ sản phẩm tươi sống đã qua đông lạnh đến
-18 độ
C; (ii) chế biến từ sản phẩm tươi sống thành sản phẩm chín; (iii) chế
biến từ
nguyên liệu có pha trộn gia vị phụ liệu để ra hàng GTGT đều là hoạt động
chế
biến thủy sản và được phân vào nhóm ngành 102-1020: Chế biến, bảo quản
thủy
sản và các sản phẩm từ thủy sản.”
Tuy nhiên, đến nay nội dung quan trọng này vẫn chưa được đưa vào hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật chính thức, gây khó khăn trong thực
tiễn triển
khai tại các địa phương.
Đề xuất: Bộ Tài chính đưa nội dung trên, đã được Bộ xác nhận tại công
văn số 2550/BTC-TCT ngày 12/3/2021 vào văn bản quy phạm pháp luật quy
định
rõ chế biến thủy sản là “hoạt động chế biến” và được hưởng ưu đãi thuế
suất
TNDN cho hoạt động chế biến thủy sản.
- Nội dung kiến nghị:
Quan điểm không thống nhất giữa Bộ Tài chính và Cục Thuế về thuế suất
GTGT cho sản phẩm thủy sản (SPTS) đông lạnh:
- Theo Công văn 5423/TCT-CS (28/12/2018) và các công văn từ Cục thuế
tỉnh (Kiên Giang, Cà Mau), SPTS đông lạnh thuộc đối tượng không chịu
thuế
GTGT.
- Tuy nhiên, kết luận thanh tra của Bộ Tài chính năm 2024 và các công
văn
1757/CTCMA-TTHT (02/8/2024), 2074/CTCMA-TTHT (16/9/2024),
2147/CTCMA-TTHT (24/9/2024) khẳng định SPTS đông lạnh phải chịu thuế
GTGT 10%, căn cứ Công văn 2550/BTC-TCT.
- Thanh tra Cục Thuế cho rằng ưu đãi thuế TNDN (theo Công văn
2550/BTC-TCT) không liên quan đến thuế GTGT (theo Thông tư
219/2013/TTBTC). Thực tế này khiến doanh nghiệp khó xác định đúng mức
thuế GTGT phải
kê khai, dễ bị truy thu, không được khấu trừ thuế đầu vào, ảnh hưởng lớn
đến chi
phí và rủi ro pháp lý trong thanh kiểm tra thuế.
Đề nghị Bộ Tài chính và Cục Thuế sớm có văn bản hướng dẫn thống nhất,
rõ ràng gửi tới các Cục Thuế địa phương và doanh nghiệp, theo hướng:
- Ưu đãi thuế TNDN thực hiện theo công văn số 2550/BTC-TCT, áp dụng
cho sản phẩm được xác định là “chế biến” theo quy định.
Hỏi:
eD - Nội dung kiến nghị liên quan đến khoản 9 Điều 5 Luật Thuế GTGT
số 48/2024/QH15:
Luật Thuế GTGT xác định tổ chức tín dụng (TCTD) xử lý tài sản bảo đảm
(TSBĐ) vẫn phải chịu thuế GTGT: Nghị định số 209/2013/NĐ-CP của Chính
phủ và Thông tư số 219/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính đã xác định hoạt động
bán TSBĐ của TCTD không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Quy định này đã
mở ra cơ hội lớn cho cả TCTD và khách hàng, chủ tài sản trong xử lý nợ xấu và
đã có tác động rất tích cực đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu và nâng cao hiệu quả
xử lý nợ.
Tuy nhiên, Khoản 9 Điều 5 Luật thuế GTGT số 48/2024/QH15 chỉ quy
định 1 loại giao dịch xử lý TSBĐ không chịu thuế GTGT: “Bán tài sản bảo đảm
của khoản nợ của tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ
thành lập có chức năng mua, bán nợ để xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng
Việt Nam”. Quy định này đã: (i) Tạo ra khó khăn lớn cho TCTD và các tổ chức,
cá nhân trong việc xử lý nợ xấu; (ii) Làm giảm hiệu quả của hoạt động xử lý nợ;
(iii) Tạo ra sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, không phù hợp với
chủ trương tại Nghị quyết 65/NQ-TW về nguyên tắc bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế.
Ngay khi quy định này của Luật Thuế GTGT ban hành, Hiệp hội Ngân
hàng, các TCTD cũng đã nhiều lần kiến nghị Bộ Tài chính có quan điểm đề nghị
các Cơ quan có thẩm quyền xem xét, tháo gỡ, nhưng khi sửa đổi Luật Thuế
GTGT tại Luật sửa đổi một số luật năm 2025, nội dung này cũng chưa được xem
xét, đưa vào sửa đổi. Đề xuất sửa đổi khoản 9 Điều 5 Luật Thuế GTGT theo
hướng: Giữ nguyên quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật trước đây, xác
định việc xử lý TSBĐ của TCTD cũng là hoạt động không chịu thuế GTGT.